Thứ Sáu, 30 tháng 7, 2010

Chiều Không gian và Năng Lượng Vũ Trụ

Chiều Không gian và Năng Lượng Vũ Trụ (1)

Louis Nguyễn

I . Dẫn nhập:

Con người từ khi hệ thống hoá được vật chất thì cho đến ngày nay, các nhà khoa học chỉ tìm được không gian 3 chiều là hết, trải qua hằng thế kỷ họ vẫn nghĩ rằng ngoài không gian ba chiều thì sẽ phải có chiều thứ tư, thứ năm, thứ sáu...những chiều này sẽ giúp ích rất nhiều cho nhân loại. Nhưng những chiều này là gì? Có liên quan gì đến thế giới vật chất mà ta đang sống. Và phương tiện nào để giúp con ngươì xử dụng được chiều này. Nhưng tại sao họ lại cho rằng những chiều này sẽ vô cùng hữu ích, như thế chắc hẳn chiều thứ ba cũng đã giúp ích rất nhiều cho nhân loại. Trước khi tìm hiểu về những chiều trên, ta sẽ tìm hiểu về các chiều không gian qua những nhà toán học.

II. Không gian ba chiều:

Thượng đế tạo nên muôn lòai vạn vật để học hỏi và tiến hóa. Khoa học lại chia muôn loài thành vô hình và hữu hình. Vật thể hữu hình thì luôn luôn là một vật thể có hình dạng nào đó trong không gian, Vô hình là những loại mà ta không thấy bằng mắt thường, không có hình dạng cố định như những vật chất ở thể hơi, ở thể rung động..v..v.

Để tính toán và diễn tả các vật thể có hình dạng cố định, các nhà Toán học chia các vật thể này vào không gian 1, 2, 3 chiều để thuận tiện trong việc xử dụng và tính toán. Thí dụ: Ta có một cái hộp, thì nếu cần để vẽ trong không gian thì ta phải vẽ nó có kích thước theo 3 chiều: chiều X, chiều Y, và chiều Z. Từ đây ta có thể tính được mọi thứ liên quan đến cái hộp này. Nếu ta chỉ cần thấy từng mặt của cái hộp này (để tính diện tích) thì ta chỉ xử dụng hai chiều; xy,yz, hay xz là đủ. Và khi chỉ cần biết chiều dài cuả một cạnh, thì ta chỉ cần xử dụng một chiều x, y hay là z để diễn tả chiều dài cuả một cạnh đó.

Hình học Euclide dựa trên định đề Euclide làm căn bản, định đề Euclide được phát biểu như sau: "Từ một điểm ngoài một đường thẳng, ta chỉ có thể vẽ được một đường thẳng duy nhất song song với đường thẳng đó" .Từ định đề này các nhà toán học mới dựa vào đây mà phát triển ngành hình học. Ngoài định đề Euclide để làm căn bản cho ngành hình học, ta còn có Hình học Riemann (Riemann là nhà toán học Đức), dựa vào định đề Riemann:"với hình học cong, từ một điểm ngoài một đường thẳng, ta không thể vẽ được bất kỳ đường thẳng nào song song với đường thẳng đó" . Hình học Lobachevsky (Lobachevsky là nhà toán học Nga) với căn bản là định đề Lobachevsky: "Từ một điểm ngoài một đường thẳng ta có thể vẽ được hai đường thẳng song song với đường thẳng đó". Nhưng chỉ có định đề Euclide là rõ ràng, thuận tiện và hợp lý nhất. Do đó môn hình học Euclide là môn hình học được xử dụng trên thế giới hiện nay.

2.1 NGUYÊN TẮC VỀ CÁC CHIỀU TRONG KHÔNG GIAN:

Nếu ta không có chiều nào hết thì tất cả vật chất đều được diễn tả trong không gian là một cái chấm. Cho dù vật ấy to vô cùng hay nhỏ tí xíu, hay là vật ấy có bất cứ hình dạng nào cũng chỉ được diễn tả là một chấm trong không gian. Mà một chấm thì không đủ yếu tố để diễn tả đầy đủ hay tính toán cho vật ấy.

Không gian 1 chiều: (hay là 1 chiều trong không gian) là chiều căn bản cuả hình học Euclide, được diễn tả bằng một vectơ đơn vị, và có chiều dài là 1 đơn vị, có chiều là chiều của vectơ đơn vị. đoạn thảng, đường thẳng, đường cong thì chỉ đo được chiều dài mà thôi. Khi vạn vật được vẽ dưới không gian một chiều, thì ta chỉ có một đoạn thẳng, một đoạn cong dài hay ngắn, thí dụ: caí hộp này theo chiều x, ta đo được 8 cm..v.v.

Không gian 2 chiều: (hay là 2 chiều trong không gian) là chiều kế tiếp cuả hình học Euclide, được diễn tả bằng hai vectơ đơn vị thẳng góc, hai vectơ thẳng góc nay tạo thành một mặt phẳng. Những vật thể diễn tả dưới không gian hai chiều là một hình vẽ khép kín, hình vẽ này là một mặt phẳng giới hạn bởi những đường khép kín, song song (hay trùng) với mặt phẳng của 2 vectơ đơn vị nói trên. Với không gian hai chiều, với cái hộp trên ta đo được thêm chiều y, giả sử là 5 cm và ta tính được diện tích của vật thể đó ở 2 chiêù xy đó,

Không gian 3 chiều: (còn gọi là 3 chiều trong không gian) là chiều kế tiếp của hình học Euclide, từ 2 vectơ đơn vị của không gian 2 chiều ta vẽ thêm một vectơ đơn vị cùng gốc và thẳng góc với hai vectơ đơn vị cuả không gian 2 chiều. Ta sẽ có 3 vectơ đơn vị, cùng gốc và thẳng góc lẫn nhau. Đó là căn bản của không gian 3 chiều mà thường có tên là chiều xyz. Với không gian 3 chiều ta có được thêm chiều z, với cái hộp đó, giả sử ta đo được là 3 cm và khi ấy ta diễn tả trọn vẹn hình dáng của cái hộp trong không gian , nhờ diễn tả caí hộp qua 3 chiều không gian, ta có kích thước của cái hộp này và nhờ vậy tính được thể tích cuả cái hộp, tính được khối lượng của nó, tính được trọng tâm, moment quán tính..v.v. Tổng quát hơn, nhờ không gian ba chiều, ta biết kích thước toàn thể của vật thể đó, và từ những yếu tố này, ta có thể tính toán và diễn tả tất cả những gì liên quan đến vật thể đó.

Từ những sự tạo nên của các chiều đưa ta có những nhận định sau:

Căn bản là Không gian 1 chiều (vectơ đơn vị ox), và muốn có chiều thứ hai ta phải có vectơ đơn vị thứ hai (oy) thẳng góc với Vectơ đơn vị (ox) . Và muốn có chiều thứ ba, ta phải vẽ được một vectơ đơn vị oz, và vectơ này phải thẳng góc với 2 vectơ đơn vị ox, oy . Đến ngày nay khoa học chỉ có thể tìm được 3 chiều không gian xyz với những vật thể chung quanh ta. Vậy muốn vẽ được chiều thứ tư theo hình học Euclide, thì ta phải có một hay nhiều vectơ đơn vị cùng thẳng góc với ox, oy, oz . Để thỏa mãn điều kiện này thì ta chỉ có thể vẽ một không gian 3 chiều khác, cùng gốc o và cùng thẳng góc với không gian 3 chiều ox, oy, oz đó với những vectơ đơn vị là những biến số tỉ lệ với vectơ đơn vị của không gian 3 chiều đó.

Vậy với toán học, từ mỗi vật thể cố định, hữu hình (diễn tả bằng 3 chiều xyz) ta có thể vẽ được một hình giống như như vật thể đó, bao trùm bên ngoài theo tỉ lệ cân đối với vật thể đó. Và vì không có gì để xác định theo tỉ lệ nào, nên hình này mang tính chất linh động, và tỉ lệ này sẽ là lớn hơn 1 và nhỏ hơn cộng vô cực. Và theo điều kiện của hình học Euclide, thì hình linh động này chính là chiều thứ tư của vật thể đó. Trong vật lý, hình Hologram của một vật thể 3 chiều là một hình ảnh rõ ràng nhất để diễn tả không gian 4 chiều (hay chiều thứ tư) của vật thể đó. Ta thấy hình Hologram có thể lớn dần lên theo tỉ lệ cân xứng khi so sánh với vật đó.

Các nhà Toán học diễn tả như sau:

F(x) cho không gian một chiều x

F(x,y) cho không gian hai chiều x,y

F(x,y,z) cho không gian ba chiều x,y,z

Và với không gian 4 chiều ta có thể diễn tả như sau

F(x,y,z) U F(xk,yk,zk) với k là biến số thực 1 <>

Từ những chiều kể trên đưa đến cho ta nhận xét sau: chiều không gian n+1 luôn luôn bao gồm chiều không gian n (n: 1,2,3).

2.2 LƠI ÍCH CỦA CHIỀU KHÔNG GIAN n+1 VỚI n :

Để diễn tả những lợi ích của chiều không gian n+1 so với chiều không gian n, ta có thể quan sát những hoạt động của của con kiến và con người. Con kiến thì chỉ biết bò trên bất cứ một mặt phẳng nào: mặt đất, sân xi măng, tờ giấy .vv.. Qua những hoạt động cuả nó, ta nhận thấy con kiến chỉ biết xử dụng 2 chiều (thí dụ: bò trên mặt bàn) mà thôi. Và con kiến chỉ biết những gì có trên những mặt phẳng đó. Giả sử ta có một con kiến đang bò trong một tờ giấy, ta cầm một hạt gạo bỏ vào tờ giấy. Thì chắc chắn con kiến cho là có phép lạ khi nó phát hiện được hột gạo này. Con kiến hoàn toàn không thể hiểu được hột gạo phát xuất từ chiều thứ 3 (tức là không phát xuất từ tờ giấy). Cũng tờ giấy này, nếu nó muốn đi từ cạnh tờ giấy này sang cạnh tờ giấy cuả chiều đối diện, nó chỉ biết bò trên tờ giấy và mất một thời gian dài. Giả sử ta biết con kiến muốn vậy, ta chỉ cần giữ con kiến trong tay, và đặt nó xuống bờ bên kia, như vậy chỉ trong tic tắc là con kiến sang đến bờ bên kia, một lần nữa con kiến sẽ cho là có phép lạ. Con kiến đâu có biết là ta di chuyển con kiến trong không gian (chiều thứ ba ). Như vậy thì hạt gạo xuất hiện (được coi là phép lạ) là do ở chiều thứ ba mang đến. Và con kiến di chuyển từ cạnh tờ giấy này qua cạnh bên kia quá nhanh (coi là có phép lạ) là nhờ di chuyển trong chiều thứ ba. Và phép lạ này được thực hiện bởi con người, một sinh vật biết xử dụng chiều thứ ba.

Con người là động vật thông minh nhất, nên biết xử dụng chiều thứ ba cho cuộc sống và những tiện ích của chiều thứ 3 này. Giả sử ta đứng ở bên này bờ vực thẳm, và muốn sang bờ bên kia, Ta không có bất cứ một phương tiện nào, ngoại trừ đôi chân. Ta bắt buộc phải leo xuống cái vực này và khi đến đáy, ta phải leo lên và cuối cùng, sau một thời gian ta đã sang đến bờ bên kia. Lúc đó ta xử dụng chiều thứ hai, mặt đất là chiều thứ hai và phương tiện là đôi chân. Giả sử ta có phương tiện như có máy bay trực thăng, với phương tiện này, chỉ trong vài phút là ta đã có mặt tại bờ bên kia. Khi chiếc trực thăng vừa nhấc bổng chúng ta khỏi mặt đất, chính là lúc ta đặt chân vào chiều thứ ba, thời gian chúng ta ở trong máy bay đang bay trong không gian, đó là lúc ta đang di chuyển trong chiều thứ ba, và khi chân ta chạm mặt đất, khi đó ta về lại chiều thứ hai. Đó chính là nhờ biết xử dụng chiều thứ ba, và phương tiện là chiếc trực thăng di chuyển trong chiều thứ ba này. Như vậy, nếu lấy mặt đất (là nơi ta sinh sống) là chiều thứ hai, và khi ta nhấc bổng lên khỏi mặt đất là ta vào chiều thứ ba. Nhờ biết cách xử dụng chiều thứ ba, ta tiết kiệm được thì giờ, bớt được những bất trắc dọc đường. Đến đây thì các nhà khoa học hoàn toàn bế tắt, vì con người với cơ thể vật chất chỉ di chuyển được trong chiều thứ ba mà thôi.

Bây giờ, giả sử ta đang đứng trong một căn phòng kín, chỉ có một mình ta và trong phòng không còn đồ vật nào khác. Và ta chỉ biết những gì có trong căn phòng đó. Bỗng nhiên ta thấy có một ổ bánh mì tự nhiên xuất hiện, nếm thử, ta thấy đó là bánh mì thật chứ không phải là aỏ giác, chắc chắn ta cho đó là phép lạ. Rồi giả sử ta điện thoại đến một người thân cách xa nửa vòng trái đất, bỗng nhiên vài phút sau ta thấy người đó tự nhiên có mặt trong phòng, vậy thì cái gì mang người đó đến đây, và bằng phương tiện gì?

Cùng suy luận như chuyện hạt gạo và con kiến, ta có thể nói là sự xuất hiện của ổ bánh mì này (được coi là phép lạ) chiều thứ tư trở lên mang đến. Và sự có mặt bất ngờ của người thân này ta có thể tạm nói là do chiều thứ tư, thứ năm hay thứ sáu, hay tất cả các chiều (chiều tổng hợp) mang đến và phương tiện phải là một cái gì đó mà ta chưa biết đến.

Do đó, nếu ta hiểu được lợi điểm cuả chiều cao hơn, và có được phương tiện xử dụng trong chiều này, ta sẽ có nhiều lợi ích. Vậy, chiều thứ tư mang đến cho ta những lợi ích gì? Chiều này có những đặc điểm gì. Làm sao để xử dụng được chiều này? Và làm sao để chứng minh với mọi người khi hiện tại con người chỉ biết đến chiều thứ ba? Đến ngày nay, những nhà Toán học đặt thêm chiêù thời gian (t) và gọi đó là chiều thứ tư. Và mục đích của sự đặt để này là để xác định vị trí của vật thể trong không gian (xyz) ở thời điểm (t). Và thường được viết dưới dạng một phương trình như sau:

F(x,y,z,t)

Và chiều thứ tư mà Minkowski đề ra đó là chiều thời gian t, chiều thời gian (t) này không thoả mãn được hình học Euclide về chiều thứ tư, (thẳng góc với các vectơ đơn vị ox, oy, oz, như đã viết ở trên). Do đó chiều thời gian (t) không phải là chiều thứ tư mà các nhà khoa học đang tìm kiếm.

Năng lượng vũ trụ đã được nói đến trong Đông Phương, trong nhiều nghiên cứu của các nhà bác học. Ta thử tìm xem Năng lượng vũ trụ là gì? Giúp ích gì cho nhân loại. Và câu hỏi quan trọng nhất: Năng lượng vũ trụ có phải là chiều thứ tư, thứ năm... của các sinh vật không? Và nếu con người xử dụng được Năng lượng vũ trụ thì con người sẽ có những khả năng đặc biệt thế nào?

Không gian 3 chiều và Năng Lượng Vũ Trụ (2)

III . Năng Lượng Vũ Trụ:

3.1 NĂNG LƯỢNG VÀ VẬT CHẤT:

3.1.1.Cãu tạo:

Muôn loài vạn vật đều có chung một nguồn gốc là hạt nguyên tử. Hạt nguyên tử là phần tử nhỏ nhất gồm một nhân nguyên tử, nhân này gồm có những Dương điện tử, mang điện tích dương và những Trung hoà tử, không mang điện tích, và quay chung quanh nhân nguyên tử những Âm điện tử. Vì số âm điện tử và dương điện tử luôn bằng nhau nên một nguyên tử thường không mang điện tích. Nếu vì một lý do nào đó, nguyên tử có thêm hoặc bớt đi một vài âm điện tử, thì nguyên tử đó sẽ mang điện tích âm hay dương tương ứng. Đến ngày nay, có vào khoảng 118 loại hạt nguyên tử, tùy theo sự cấu trúc và sự kết hợp cuả những hạt nguyên tử này mà ta có khoáng chất, động vật, thực vật..v.v.

3.1.2 Sự sống bất diệt:

Swami vivekananda đã nói: "Tổng số năng lượng trong vũ trụ là bất di bất dịch. Chúng ta không thể lấy ra hay làm tăng thêm vũ trụ này một hạt nguyên tử hay một kilgram khối lượng" và giải thích thêm rằng, cái gì đã có thì có mãi, không thể mất đi được, vì rằng nếu mất thì mất về đâu, và cái gì đã không có thì làm sao có được, ở đâu mà ra.

Thí dụ: Trong một buổi nói chuyện, Swami Vivekananda đã nói: Nếu ta tung bốn con súc sắc lên bàn, và tổng số lần tối đa để có một sự kết hợp giống như cũ là 4563 lần. Và giả dụ rằng mỗi một nguyên tử cấu tạo ra ta, ra anh, là một con súc sắc, thì một ngày nào đó chúng ta lại có sự kết hợp như cũ, và cuối cùng nhà Triết học kết luận: "Vậy thì có thể rằng ở một thời điểm nào đã qua, cách đây hằng triệu triệu năm, đã có một sự kết hợp như ngày hôm nay. Qúy vị đã có mặt ở cái quá khứ đó, và tôi cũng đang nói chuyện với qúy vị vấn đề này.." (Trần văn Kha - Yoga).

Cây lấy chất bổ trong đất, để nuôi cây. Khi cây chết đi, các chất nó lấy từ đất, lại hoàn trả về đất. Vậy thì trên thực chất thì không có gì chết hay mất cả mà chỉ có sự biến thái cuả vật chất từ dạng này qua dạng khác qua thời gian.

3.1.3 Quan niệm của Albert Einstein:

Nhà bác học A. Einstein lừng danh của thế kỷ 20 đã nói: "Vật Chất là Năng Lượng đông đặc lại" và khi "Vật chất tan biến theo tốc độ ánh sáng thì trở thành năng lượng" . Vì thế vật chất và năng lượng theo Einstein chỉ là một.

Khi đứng yên, vật chất có một năng lượng bởi công thức:

Eo = M0 . C 2 (1)

Và khi chuyển động, vật chất có năng lượng được tính bằng:

Ev = M0 . C2 / ( 1 - V2/ C2 )1/2 (2)

Eo: Năng lượng ở thể tĩnh

Ev : Năng lượng ở vận tốc V

M0: Khối lượng vật chất khi đứng yên

C: vận tốc ánh sáng

V: vận tốc cuả khối lượng Mo

Với công thức này (2), vật chất sẽ có một năng lượng tương xứng khi vật chất di chuyển, và khi vật chất di chuyển gần bằng vận tốc cuả ánh sáng, khoảng .9995 C , khi đó năng lượng sẽ tăng lên 100 lần. Và khi vật chất di chuyển bằng vận tốc cuả ánh sáng khi ấy ta sẽ có một năng lượng (Ev) vô tận mà ta không xác định đuợc là bao nhiêu, Và vì thế với Einstein và nền khoa học hiện đại chỉ chấp nhận rằng: vật chất không thể nào di chuyển nhanh bằng hay nhanh hơn ánh sáng. Đó là giới hạn cuả không gian ba chiều.

3.1.4 Kết luận:

Toàn thể vật chất cho đến năng lượng đều có chung một nguồn gốc. Tùy theo từng điều kiện khác nhau mà những hạt nguyên tử xắp xếp khác nhau để tạo nên những vật thể khác nhau. Người, vật, mặt trời, đá đều là kết tinh của một thứ nguyên liệu căn bản là hạt nguyên tử. Vì cùng một nguồn gốc nên tất cả đều ảnh hưởng lẫn nhau, và vật chất chỉ là dạng đông đặc của năng lượng. Nên năng lượng cũng sẽ ảnh hưởng lên con người. Sau đây ta sẽ tìm hiểu về những quan niệm về Năng lượng vũ trụ qua Đông và Tây Phương và những liên quan mật thiết giữa con người và Năng lượng vũ trụ.

3.2 NHỮNG QUAN NIỆM VỀ NĂNG LƯỢNG VŨ TRỤ:

3.2.1 Đông Phương

Mặc dù những nhà thần bí đã không nói đến năng lượng vũ trụ, nhưng những truyền thống của họ qua hơn 5000 năm từ khắp mọi nơi trên thế giới vẫn phù hợp với những quan sát của các nhà khoa học gia đã bắt đầu tiến hành gần đây.

Qua hơn 5000 năm, những người Ấn độ cổ có nhắc đến một loại năng lượng vũ trụ gọi là Prana. Prana được coi như là nguồn gốc căn bản của sự sống. Prana, hơi thở của sự sống, chuyển dịch qua mọi hình thái và mang sự sống đến cho chúng ta. Prana có sức mạnh không giới hạn. Hiểu được năng lượng prana là chià khóa để có thể kiểm soát được prana. Và khi đó ta sẽ có năng lực mạnh nhất: "có thể di chuyển mặt trời, những ngôi sao, và mọi vật trong vũ trụ, từ nhân nguyên tử đến những tinh tú khổng lồ...Hiểu được prana để chuyển dịch và ta có thể kiểm soát được thân thể, chế ngự được bệnh tật và ta có thể điều trị bệnh nhân từ xa vì prana di chuyển được trong không gian" (Trần văn Kha-Yoga).

Những nhà Yoga thực hành thao tác năng lượng này qua những kỹ thuật thở, thể dục và thiền định để duy trì tình trạng thức tỉnh và duy trì tuổi xuân vượt xa những giới hạn bình thường.

Người Trung Hoa, khoảng ba ngàn năm trước Công Nguyên, đã thừa nhận sự hiện diện của một năng lượng sống mà họ gọi là Khí. Tất cả muôn loài vạn vật, đều có và toả ra Năng lượng này. Khí này có hai lực hoàn toàn trái ngược nhau là Âm và Dương. Khi Âm và Dương cân bằng thì cơ thể sống biểu lộ sức khoẻ thể chất; khi mất cân bằng thì kết quả là bệnh tật. Dương thịnh dẫn đến sự hoạt động qúa mức cuả các cơ quan. Âm thịnh dẫn đến sự hoạt động yếu kém. Nếu cả hai mất cân bằng thì dẫn đến đau yếu. Nghệ thuật Châm Cưú cổ xưa cho đến ngày nay, nghệ thuật này vẫn còn được xử dụng, Châm cứu tập trung vào việc quân bình âm dương để phục hồi sức khoẻ.

Từ lâu Võ Thiếu Lâm đuợc coi là nguồn gốc của tất cả các môn võ thuật khác trên thế giới, và sau đây là quan niệm về Năng lượng vũ trụ qua môn Nội Công. Nội Công là:

"Môn học cách tích tụ nguồn Năng Lực vạn năng cuả thiên nhiên vào nội thể để đạt đến mục đích cường kiện thân thể, minh mẫn tinh thần mà theo cách người xưa là Ngoại Tà, ngoại ma (Linh hồn bất tử bất diệt) không thể xâm nhập bản thân được.".

Tiên thiên khí hay Hỗn nguyên Khí (Năng Lực Vạn năng cuả thiên nhiên) là một loại khí có sức ép khoảng 100.000.000 tấn trên mỗi centimet vuông vật chất trên và trong quả địa cầu. Năng Lực này xuyên qua mọi vật thể, và không để lại dấu vết nào. Hỗn nguyên khí không phải là Dưỡng khí và Đạm khí (1/5) mà phổi ta thu nhận theo từng hơi thở, mà hỗn nguyên khí làm phổi phải thở để nhận Dưỡng và Đạm Khí. Bởi thế, khi ta hít vào thì khí Dưỡng và Đạm được Phổi thu nhận còn Hỗn Nguyên được tư tưởng dẫn đến và tích tụ nơi Đan Điền, khi Đan Điền tích tụ được Hỗn Nguyên thì người ta đã đạt được sức mạnh vạn năng.

Nhờ tính xuyên qua mọi vật chất mà không làm hư hại vật chất, nên Nội gia tích và tán khí đi khắp nơi trong thân mình, và xử dụng như ý muốn. (GS Hàng Thanh -Tự Luyện nội công Thiếu Lâm Tự)

Theo tác giả Bạch Liên (Học cơ tiến hoá theo khoa Minh triết thiêng liêng - Thông Thiên học) thì:

Sinh Lực tiếng Phạn là Prana, là một Thứ Thần Lực do Đức Thái Dương Thượng Đế ban rải ra. Ở Cõi nào, Cảnh nào cũng có Sinh Lực Prana. Nó là Sự Sống, không có nó, không có Sự Sống của các Hình Thể.

Tại Cõi Trần Sinh Lực Prana từ Mặt Trời tuôn xuống. Nó kết hợp chặt chẽ những Nguyên Tử để làm ra các Cơ Quan trong mình Con Người và Loài Vật. Nhờ có nó, Con Người và Loài Vật mới có cảm giác. Khi nó lìa bỏ xác thân các tế bào đều rã ra những Nguyên Tử như trước.

Nói tóm lại, trong vật thực, trong không khí, trong thuốc men, trong thảo mộc, kim thạch đều có Sinh Lực Prana.

3.2.2 Tây Phương

Năm 1911, Bác sĩ William Kilner báo cáo các nghiên cứu của mình về Năng lượng vũ trụ bao quanh con người, năng lượng này được nhìn thấy qua một tấm màn mầu và bộ lọc. Ông mô tả cái mà mình nhìn thấy như là:" một màn sương rực sáng chung quanh toàn bộ thân thể con người ở ba vùng: a) Lớp màu tối rộng khoảng 1/4 inch sát vào bề mặt của da; b) lớp giống như hơi nước, rộng 1 inch tuôn ra thẳng góc với thân thể, bao quanh lớp nói trên; c) lớp ngoài cùng thì sáng và mỏng mảnh, hơi xa ra một chút, có đường bao quanh không rõ rệt, rộng khoảng 6 inch. Ông Kilner thấy rằng trường năng lượng bao quanh con người khác nhau tùy theo tuổi, Nam hay Nữ, khả năng tâm thần và sức khoẻ. Một số bệnh tật biểu lộ ra thành những đốm lớn hoặc những bất thường trên trường Năng lượng vũ trụ bao quanh con người. Điều này làm cho ông Kilner phát triển một hệ thống chẩn đoán bệnh tật dựa trên mầu sắc, cách sắp xếp của các lớp năng lượng này. Một số bệnh được ông chẩn đoán bằng cách này là bệnh nhiễm trùng Gan, những khối U, xưng Ruột dư, chứng động kinh và các rối loạn tâm lý như bệnh Hysteria.

Bác Sĩ Richard Dobrin và Bác Sĩ John Pierrakos đã làm thí nghiệm đo trường năng lượng con người, họ đo được mức ánh sáng có chiều dài sóng khoảng 350 nanometer trong phòng tối trước, trong và sau khi có mặt nhiều người. Những kết quả cho thấy ánh sáng hơi tăng trong phòng tối khi có nhiều người trong đó. Trong một trường hợp, mức độ ánh sáng giảm thực sự khi có một người nào đó mệt lữ và đầy tuyệt vọng có mặt trong phòng tối. Trong một thí nghiệm khác, họ có thể trình bày một phần cuả của Năng lượng vũ trụ bao quanh con người trên màn ảnh vô tuyến truyền hình đen trắng, với một thiết bị được sử dụng là Bộ Tạo Mầu. Dụng cụ này có làm cho người ta có khả năng khuyếch đại mạnh những thay đổi cường độ sáng gần thân thể con người.

Tại viện nghiên cứu Nguyên Tử Thượng Hải, của Viện Hàn Lâm Sinica, Những nhà bác học cho biết rằng: “Một số sinh lực phát ra từ những thầy dạy Khí Công, có sóng âm tần số rất thấp, xuất hiện dưới dạng một sóng mạnh dao động tần số thấp.” Trong một số các trường hợp, họ cũng tìm thấy "Khí" dưới dạng một dòng chảy vi hạt. Đường kính những hạt này khoảng 60 micron, và di chuyển với vận tốc từ 8 đến 20 inch mỗi giây".

Cách đây vài năm, một nhóm các nhà nghiên cứu thuộc viện nghiên cứu Thông Tin Sinh Học A.S. Povov công bố phát hiện các sinh vật phát ra những rung động năng lượng có tần số từ 300 đến 2000 nanometer. Họ gọi năng lượng này là Bioplasma (trường Sinh Học). Họ nhận thấy rằng những người có khả năng truyền năng lượng Sinh Học thì họ có trường Sinh Học mạnh hơn và rộng hơn. Những phát hiện này đã được xác nhận tại Viện Hàn Lâm Y Học tại Mạc Tư Khoa và được nghiên cứu đồng tình tại các quốc gia Đức, Hoà lan, Anh Quốc và Ba Lan.

Bà Rosalyn Bruyere thuộc Trung Tâm chữa trị bằng ánh sáng tại Glendale, tiểu bang California đã quan sát các trường năng lượng cuả người điều khiển tâm thần và cuả người được điều khiển tâm thần. Bà quan sát thấy mầu xanh trong trường năng lượng ở bất cứ vị trí đặc hiệu nào thì các số đo điện tử luôn luôn cho thấy hình thái sóng mầu xanh và tần số đặc biệt tại những vị trí đó. Bác Sĩ Hunt đã lập lại thí nghiệm này với bảy người đọc trường năng lượng khác. Tất cả đều nhìn thấy mầu sắc trường năng lượng tương quan với cùng mô hình tần số / sóng. Tháng 2 năm 1988, họ có kết quả cho công trình nghiên cứu trường năng lực như sau:

Ánh sáng xanh: 250 - 275 Hz

Ánh sáng Lục: 250 - 475 Hz

Ánh sáng Vàng: 500 - 700 Hz

Ánh sáng Cam: 950 - 1050 Hz

Ánh sáng Đỏ: 1000 - 1200Hz

Ánh sáng Tím: 1000 - 2000Hz

Ánh sáng Trắng: 1100 - 2000Hz

Bác Sĩ Hunt kết luận: "Trải qua nhiều thế kỷ, các nhà ngoại cảm nhìn thấy và mô tả hiện tượng phát hào quang, đây là lần đầu tiên chúng ta thu được bằng chứng khách quan về tần số, biên độ và thời gian, khẳng định các nhận xét chủ quan cuả họ về hiện tượng toả màu sắc." (Barbara Brennan - Hands of Light)

Với phương trình (2) của Einstein, khi Vận tốc V nhanh hơn Vận tốc cuả ánh sáng C, tỉ số V2/ C2 sẽ lớn hơn 1, và khi 1 trừ số lớn hơn 1 sẽ là một số âm. Khi đó Phương trình này sẽ có mẫu số là một căn số bậc hai của một số âm. Ta không thể giải được phương trình này khi Vận tốc V nhanh hơn vận tốc cuả ánh sáng C. Và chính vì thế, với Einstein và các nhà hoa học hiện đại chỉ chấp nhận rằng, vật chất không thể nào di chuyển nhanh hơn vận tốc ánh sáng.

Tuy nhiên, với i bình phương bằng -1 của nhà toán học Charles Muse, ta giải được phương trình của Einstein khi vận tốc V nhanh hơn vận tốc của ánh sáng C và khi đó khối lượng và năng lượng sẽ là một số âm. Tiến sĩ William Tiller cho rằng khoảng vận tốc V từ zero đến gần vận tốc ánh sáng C là thế giới của không gian (thời gian) Dương hay là thế giới của vật chất. Khoảng mà vận tốc nhanh hơn vận tốc của ánh sáng được gọi là thế giới của không gian (thời gian) Âm.

Toàn bộ những sinh vật, những hệ thống mà ta thấy chung quanh ta là đang sống trong thế giới cuả không gian dương/ thời gian dương. Với thời gian, tất cả những sinh vật và những hệ thống này (có khối lượng dương) đều có khuynh hướng bị tan rã. Khuynh hướng tan rã của vật chất được gọi là Entropy. Entropy càng cao thì khuynh hướng tan rã càng nhanh. Thế giới vật chất là thế giới của tan rã, tuy nhiên có trường hợp tạo dựng được tìm thấy trong thế giới vật chất, đó là ở trong tính chất của những sinh vật sống. Hệ thống sinh học trong cơ thể thu nhận những thức ăn và biến đổi những những chất đơn giản này thành những chất đạm, DNA..v.v. Những sinh lực (chất đạm, DNA ..v.v.) này được đưa đến từng bộ phận trong cơ thể để cơ thể dinh dưỡng và phát triển. Như vậy, ta có thể nói rằng những sinh lực này hoàn toàn không có Entropy, nghiã là những sinh lực này có khuynh hướng tạo dựng và phát triển.

Trong khoảng vận tốc nhanh hơn vận tốc của ánh sáng, là thế giới cuả không gian âm / thời gian âm, với công thức của Einstein kể trên, năng lượng khi đó sẽ là năng lượng âm, khối lượng cũng sẽ là khối lượng âm và vì khối lượng âm nên không thể nào có Entropy, và không có Entropy nghĩa là không có khuynh hướng phá huỷ, hay nói một cách khác thế giới cuả không gian âm / thời gian âm này là thế giới của tạo dựng. (Dr. Richard Gerber - Vibration Medicine).

Như vậy, với những quan niệm của Đông Phương, con người cũng cần Năng lượng vũ trụ để dinh dưỡng và phát triển, và giai đoạn từ lúc Năng lượng vũ trụ chuyển hoá đến cơ thể là giai đoạn tạo dựng và nuôi dưỡng và ta có thể nói tiến trình này thuộc vào khoảng không gian âm / thời gian âm, với vận tốc (hay rung động) nhanh hơn vận tốc ánh sáng.

Năng lượng vũ trụ di chuyển nhanh hơn vận tốc ánh sáng và không bị nhiễu loạn bởi bất cứ một làn sóng nào trong không gian khi năng lượng này được truyền đi từ A đến B”. Điều này được dẫn chứng bởi bất cứ một học viên nào (học từ lớp 6 trở lên) khi dùng Luân xa 6 để trị bệnh từ đằng xa, thì con đường thẳng mà Năng lượng vũ trụ di chuyển đó phải xuyên qua, vách tường, cây cối..v.v. mới đến được người bệnh và kết quả là bệnh nhân phục hồi. Điều này chứng minh rằng Năng lượng vũ trụ có khả năng đi xuyên qua vật chất mà không huỷ hoại vật chất, không để lại dấu vết, và không bị nhiễu loạn bởi bất kỳ làn sóng điện nào.

Mãi đến năm 1956, khoa học mới khám phá được trong ánh sáng mặt trời có chứa những hạt Solar neutrinos. Trên mặt địa cầu, mỗi centimeter vuông, cứ mỗi giây có khoảng 7 tỉ hạt solar neutrinos đi xuyên qua với vận tốc gần bằng vận tốc của ánh sáng, vì hạt solar neutrino quá nhỏ và hầu như không có khối lượng nên những hạt solar neutrinos đi xuyên qua vật chất dễ dàng, vì thế phía kia quả đất, tuy không hướng về phía mặt trời nhưng vẫn nhận đủ số lượng hạt solar neutrinos. Con người cũng vậy, mỗi giây có khoảng 50 ngàn tỉ hạt solar neutrinos đi xuyên qua.

Khoa học thực nghiệm hiện tại chưa thể đo được hay tìm được những gì đi nhanh hơn vận tốc ánh sáng. Nhưng bằng những gì thực hiện được cuả ngành QTSTH qua việc xử dụng Luân xa để thu hút năng lượng vũ trụ (gần nhất là năng lượng mặt trời) để trị bệnh ta có thể cho rằng Năng lượng mặt trời còn có những hạt đi nhanh hơn vận tốc cuả ánh sáng (mang tính tạo dựng và phát triển) kèm trong đó có những hạt solar neutrinos đi chậm hơn mà khoa học mới tìm được và hiểu được phần nào.

3.2.3 Đặc điểm của Năng lượng vũ trụ:

Qua những quan niệm và những nghiên cứu về Năng lượng vũ trụ đưa ta đến những tóm tắt sau:

Năng Lực Prana, Tiên thiên Khí, Sinh lực, Trường năng lượng, Bioplasma có thể coi như có cùng một tên gọi, đó là Năng Lượng Vũ Trụ.

Năng Lượng Vũ Trụ là thành phần cơ bản và là nguồn gốc của mọi sự sống từ khoáng chất, thực vật, thú vật và con người.

Năng Lượng Vũ Trụ có một sức mạnh không biên giới, sức mạnh này xuyên qua vật chất mà không để lại dấu vết.

Năng Lượng Vũ Trụ hiện diện khắp mọi nơi, bất cứ thời điểm nào, và nguồn năng lực này vô hạn.

Năng Lượng Vũ Trụ có thể di chuyển nhanh hơn vận tốc ánh sáng và không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ làn sóng điện nào.

(Xin xem tiếp phần 3)

Không gian 3 chiều và Năng Lượng Vũ Trụ (3)

3.3 CON NGƯƠÌ

Con người gồm có cơ thể (còn gọi là cơ thể vật chất) và những trường năng lượng (còn gọi là cơ thể năng lượng) bao bọc chung quanh.

3.3.1 Cơ thể vật chất: Ngày nay, nền khoa học thực nghiệm chỉ công nhận con người được cấu tạo bởi những tế bào sống, con người được nuôi sống bởi không khí, ánh sáng và thực phẩm. Những thứ này được hấp thụ qua những cơ quan trong cơ thể, biến đổi thành những chất dinh dưỡng khác nhau để nuôi sống các tế bào trong thân thể. Khi con người bị bệnh, thì tuỳ những căn bệnh, sự chữa trị sẽ khác nhau. Đó là những gì con người ngày nay được hướng dẫn. Trong cơ thể vật chất có nhiều tuyến nội tiết, mỗi tuyến nội tiết đều tiết ra các kích thích tố (hormon) riêng biệt để điều hoà sự hoạt động các cơ quan liên hệ. Tuyến Yên và tuyến Tùng là hai tuyến nội tiết quan trọng nhất:

Tuyến Yên (Pituitary gland) : nhỏ bằng hạt đậu, nằm phía đáy não bộ, là tuyến quan trọng nhất trong các tuyến nội tiết, tuyến này là tuyến chính, điều khiển và quân bình sự sản xuất các kích thích tố cuả tất cả những tuyến nội tiết khác trong cơ thể như: tuyến giáp trạng, tuyến thượng thận, buồng trứng , dịch hoàn. Khi những tuyến nội tiết không tiết ra những kích thích tố đúng mức, những cơ quan liên hệ sẽ họat động rối loạn, và đây là nguyên nhân của bệnh tật. Như vậy, nếu tuyến Yên được kích thích đúng mức, tất cả các tuyến nội tiết sẽ hoạt động đều hòa, cơ thể sẽ không bao giờ mang bệnh. Tuyến này liên quan đến Luân Xa 7

Tuyến Tùng (Pineal gland): là tuyến nội tiết đầu tiên có trong cơ thể con người, có hình dáng rõ ràng sau tuần thứ ba của thai nhi, tiết ra kích thích tố Melatonin, chất này đến ngày nay nhiệm vụ cũng chưa rõ ràng, chỉ biết chất này có thể điều hòa giấc ngủ, ngăn ngừa ung thư, và chống sự gìa nua của cơ thể. Lượng Melatonin có nhiều nhất ở tuổi 10 đến 15, và sau đó lượng này giảm dần khi tuổi tăng dần và kết qủa là cơ thể ta già yếu và giấc ngủ không đều hòa. Melatonin kích thích tuyến Ức (Thymus gland), làm tuyến này tái sinh sản kháng tố T-cell, kháng tố này sẽ huỷ diệt các tế bào ung thư. Sau tuổi 15, tuyến Ức giảm dần họat động, vì vậy kháng tố T-cell cũng giảm dần. Vì vậy, khi tuyến Tùng được kích thích đều đặn, lượng Melatonin được tiết ra đều hoà, cơ thể sẽ già đi chậm hơn so với thời gian, và bệnh ung thư khó phát triển, và giấc ngủ sẽ đầy đủ hơn. Tuyến này liên quan đến Luân xa 6.

3.3.2 Cơ thể năng Lượng:

Nhiều nhà Khoa học, các nhà Tâm Linh đều nói đến trường ánh sáng bao quanh cơ thể con người. Chỉ có những người có Thần Nhãn được khai mở (clairvoyance) mới thấy được những trường ánh sáng này. Những trường ánh sáng này được gọi là cơ thể năng lượng. Cơ thể năng lượng được nuôi dưỡng bởi năng lượng vũ trụ. Các Luân xa hấp thụ năng lượng vũ trụ, sau đó năng lượng này được phân ra thành những phần tử nhỏ theo các kinh mạch dẫn về hệ thần kinh, qua các tuyến nội tiết, và vào máu để nuôi dưỡng cơ thể. Các Luân xa của cơ thể năng lượng có ba chức năng chính: (Theo Barbara Brennon - Bàn tay ánh sáng)

1) Tiếp sinh khí cho từng cơ thể năng lượng, và do đó tiếp sinh khí cho cơ thể vật chất.

2) Tạo ra sự phát triển những diện mạo khác nhau cuả ý thức về bản thân.

3) Truyền năng lượng giưã các vầng.

Cơ thể năng lượng có 7 luân xa chính và 7 vầng năng lượng chồng lên nhau, nên mỗi Luân xa chính ta có 7 vầng năng lượng tương ứng cho mỗi luân xa. Năng lượng được truyền từ vầng này sang vầng kế tiếp nhờ những hành lang ở đỉnh mỗi luân xa. Vì Luân xa dùng để tiếp sinh khí cho cơ thể vật chất nên chúng trực tiếp liên quan đến mọi bệnh lý trong cơ thể.

Cơ thể năng lượng lại được chia làm 7 vầng:

Vầng thứ nhất (Cơ thể Etheric): liên quan đến những hoạt động thể chất, những cảm nhận cuả thể xác. (do chữ ether, trạng thái nằm giữa năng lượng và vật chất) có cùng cấu trúc với thân thể, bao gồm tất cả các bộ phận giải phẫu học và toàn thể các cơ quan. Cơ thể này vượt ra khỏi mặt da của thân thể khoảng 1/4 đến 2 inches, và rung động khoảng 15-20 chu kỳ mỗi phút. Cơ thể ether gồm có một cấu trúc xác định các vạch năng lượng, trên đó thể chất các mô cuả thân thể hình thành và bám chặt vào. Các mô thể chất tồn tại như vậy là nhờ trường sinh lực ở phiá sau chúng; điều này chứng tỏ rằng trường này có trước cơ thể vật chất, chứ không phải là kết quả của cơ thể vật chất. Một cách rõ ràng hơn, Cãu trúc etheric này dựng lên khuôn để cho các tế bào sinh trưởng, nghiã là các tế bào cuả thân thể phát triển dọc theo những vạch năng lượng cuả khuôn etheric.

Theo thầy Hoàng thì Vầng thứ nhất (cơ thể etheric, là một hologram cuả con người) là một phần cuả chiều tổng hợp cuả con người, vì cơ thể Etheric là một hologram cuả con người và là phần quan trọng nhất trong việc giúp cơ thể vật chất (chiều thứ ba) sống còn và phát triển. Các nhà Khoa học biết được lợi ích vô cùng quan trọng cuả cơ thể etheric đối với thân thể con người, nhưng không sao xử dụng được, đây có thể là lý do mà họ chưa thể xác nhận rằng cơ thể etheric chính là chiều thứ tư cuả các sinh vật và là chiều thứ tư mà khoa học đang tìm kiếm và tìm cách xử dụng chiều này để mang lợi ích đến cho nhân loại.

Trường hợp dùng thuốc gây mê trong những cuộc giải phẫu kéo dài, lượng thuốc gây mê được dùng nhiều hơn, làm vầng Estheric này tan mỏng ra để bệnh nhân ngủ mê không còn cảm giác, trong lúc phẫu thuật được tiến hành. Nếu dùng quá nhiều lượng thuốc gây mê, vầng Estheric tan mất luôn và bệnh nhân sẽ không còn tỉnh lại được và bệnh nhân phải chết (Du Kỳ Sơn - Thiên thu)

Vầng thứ hai (Cơ thể cảm xúc): kết hợp với Luân Xa 2, vầng này được mệnh danh là cơ thể cảm xúc và kết hợp với các cảm giác về bản thân của mình. Vầng này vượt ra quá mặt da khoảng 1-3 inch, cấu trúc lỏng hơn nhiều so với vầng thứ nhất và không sao chép lại thân thể. Vầng này như những đám mây đủ màu sắc, mỗi luân xa có những mầu sắc khác nhau, trông giống như các cuộn xoáy nhiều mầu.

Vầng thứ ba (Cơ thể tâm thần): Kết hợp với Luân Xa 3. Vầng này vượt qua khỏi da khoảng từ 3-8 inches, có mầu vàng là chính. Cơ thể này hiện ra như một khối màu vàng chói lọi, bao quanh toàn bộ cơ thể, kết hợp với tư duy và các quá trình tâm thần

Vầng thứ tư (Cơ thể tinh tú): là vầng quan hệ với những vầng khác, vầng này được ví như chiếc cầu nối liền thế giới vật chất (vầng 1,2,3) với thế giới tâm linh. Cấu trúc không có hình dáng nhất định. Vầng này vượt quá mặt da khoảng 6-12 inches.

Vầng thứ năm (Cơ thể Etheric mẫu): chứa đựng tất cả các hình thái tồn tại trên bình diện thể chất trong sơ đồ hay hình thái mẫu. Có cấu trúc giống như vầng thứ nhất, và là khuôn mẫu cho vầng này. Vầng này này vượt quá mặt da khoảng 6-12 inches. Trong bệnh tật, khi vầng 1 trở nên méo mó thì họat động của vầng này là cần thiết để hỗ trợ cho vầng thứ nhất trong hình thái mẫu nguyên thủy cuả nó

Vầng thứ sáu (Cơ thể thượng giới): là mức cảm xúc cuả bình diện tâm linh. Nó vượt quá mặt da từ 24 đến 28 inches. Đây là xúc cảm của ta với vũ trụ và thượng đế. Vầng này có ánh sáng mầu vàng và trắng sữa như mặt xà cừ

Vầng thứ bảy (Cơ thể Ketheric mẫu): là mức tâm thần cuả bình diện tâm linh. Nó vượt quá mặt da từ 30 đến 44 inches. Vầng này gồm những sợi tơ óng vàng lung linh rung động rất nhanh.

Mỗi vầng kế tiếp thâm nhập hoàn toàn vào tất cả các vầng bên dưới nó, kể cả thân thể, vì vậy vầng thứ hai bao gồm cả vầng thứ nhất lẫn cơ thể vật chất. (giống như không gian ba chiều, bao gồm cả không gian 2 và 1 chiều).

Từ quan điểm cuả các nhà khoa học, ta có thể nói như sau: Mỗi vầng có một rung động khác nhau, vầng cao hơn có rung động cao hơn và cấu trúc thanh khiết hơn, các vầng có cấu trúc chứa đựng mọi hình thái mà cơ thể vật chất có, kể cả nội tạng, mạch máu ..và những hình thái mà trong cơ thể vật chất không có.

Trường năng lượng con người (cơ thể năng lượng) là cái phần cuả năng lượng vũ trụ kết hợp với thân thể con người (cơ thể vật chất). Hay nói một cách khác cơ thể năng lượng là một năng lượng vũ trụ cá biệt, vì nó có chứa đựng những đặc điểm riêng của cá nhân đó.

3.3.3 Tương quan giữa cơ thể vật chất và cơ thể năng lượng:

Như vậy, khi nói về con người thì ta có thể nói: con người gồm có Cơ thể vật chất và Cơ thể năng lượng: Cơ thể vật chất là phần hữu hình cá biệt, là con người mà ta nhận thấy bằng những giác quan bình thường. Cơ thể năng lượng, là năng lượng vũ trụ cá biệt, là phần vô hình, bao phủ quanh con người, chứa đựng những tính chất riêng biệt của một con người nhưng dưới dạng rung động, được nhìn thấy qua những người có Thần Nhãn. Cơ thể năng lượng có trước và là khuôn mẫu cho cơ thể vật chất dựa vào đây để cơ thể vật chất được tạo thành và phát triển.

Theo Thầy Hoàng thì khi học trò cuả ngành QTSTH xử dụng được năng lượng vũ trụ (NLVT) để mang lợi ích vô biên cho cơ thể vật chất qua cơ thể năng lượng, thì chính người học trò ấy đã có khả năng xử dụng được một phần cuả chiều tổng hợp để giúp cho con người nói riêng và tất cả các sinh vật khác.

Đi vào chiều tổng hợp, nghĩa là ta có thể biến đổi cơ thể vật chất của chính ta thành năng lượng vũ trụ cá biệt, Như vậy ta có thể noí rằng, Năng lượng vũ trụ tạo nên cơ thể năng lượng cá biệt, và từ cơ thể năng lượng cá biệt, tạo nên cơ thể vật chất. Cơ thể năng lượng cá biệt có đầy đủ những yếu tố và tính chất cuả Năng lượng vũ trụ, nhưng vì cơ thể này bao bọc chung quanh cơ thể vật chất và phải nuôi dưỡng và phát triển cơ thể vật chất nên cơ thể năng lượng này phải chịu ảnh hưởng theo cơ thể vật chất, thí dụ như: Cơ thể vật chất di chuyển chậm chạp, vì bao quanh con người nên cơ thể năng lượng cũng phải di chuyển chậm chạp cùng với cơ thể vật chất. Khi con người đứng tựa vào vách tường, thì cơ thể năng lượng không bị vách tường cản ngược lại, mà cơ thể năng lượng vẫn bao trùm cơ thể vật chất như bình thường, nói một cách khác, những vật chất trên thế gian này không cản được năng lượng vũ trụ và cũng không cản được cơ thể năng lượng.

Năng lượng vũ trụ

(tạo nên)

NLVT cá biệt + yếu tố tạo con người

(tạo nên)

Cơ thể năng lượng + Cơ thể vật chất

Ta có thể tạm cho rằng tiến trình tạo dựng con người như sau: Năng lượng vũ trụ tạo nên con người, và con người còn có những trường năng lượng bao quanh, vì vậy Năng lượng vũ trụ tạo nên Năng lượng vũ trụ cá biệt cùng với yếu tố tạo nên con người, từ hai yếu tố này sẽ tạo nên cơ thể năng lượng, và từ cơ thể năng lượng sẽ tạo nên cơ thể vật chất, và cơ thể năng lượng tiếp tục bao quanh, nuôi dưỡng và phát triển cơ thể vật chất.

Để vào chiều Tổng hợp, thì cơ thể vật chất phải biến đổi thành dạng năng lượng, năng lượng này là năng lượng của Cơ thể vật chất, cộng với Cơ thể năng lượng, khi đó con người chúng ta hoàn toàn ở dạng năng lượng và có tính chất của năng lượng vũ trụ, nên ta di chuyển đó đây nhanh hơn vận tốc ánh sáng, không bị cản trở bởi vật chất . Và vì lúc đó ta là Năng lượng vũ trụ cá biệt và Cơ thể năng lượng (chứa đựng ý muốn, cảm xúc..) bao quanh. Và với ý muốn này, ta có thể tái tạo lại cơ thể vật chất ở bất cứ nơi nào và khi nào ta muốn.

Cơ thể vật chất + Cơ thể năng lượng (chứa đựng ý muốn)

(đổi thành)

NLVT cá biệt + Cơ thể năng lượng (chứa đựng ý muốn)

Cơ thể vật chất và năng lượng liên hệ mật thiết, nếu cơ thể vật chất bị huỷ hoại (chết, tai nạn) thì tự cơ thể năng lượng không thể tái tạo lại cơ thể vật chất để làm sống lại một phần hay toàn cơ thể, điêù này cho thấy là những người đã chết, thân thể bắt đầu phân huỷ thì yếu tố sống không còn trong cơ thể năng lượng và do đó những người thân thể đã tan rã thì không thể tạo lại thể xác cũ. Ta có thể nói là những linh hồn bất tử bất diệt không thể nào biến thành sinh vật được, bởi vì yếu tố sống đã bị huỷ diệt.

Nếu Cơ thể năng lượng của con người mà từ từ biến mất (hay từ từ cạn dần) thì Cơ thể vật chất (vì dựa vào cơ thể năng lượng mà phát triển) cũng sẽ phải chết vì cạn nguồn sinh lực. Những người mới học cấp 2 mà trị quá 20 người một ngày, hay những võ sư truyền nội công chữa bệnh nhiều người trong ngày cũng có thể bị chết nếu truyền hết nguồn năng lượng của mình sang ngươì khác.

3.4 LỢI ÍCH:

Với người bệnh, ngành Tây Y, bác sĩ sẽ chẩn đoán và cho bệnh nhân uống thuốc, và Đông Y cũng tương tự như thế. Như vậy Nền Y học hiện đại chỉ quảng bá và chú tâm đến cơ thể vật chất để điều trị. Đây là một thiệt thòi lớn cho nhân loại.

Ngành Qưới Tâm Sinh Tử Học truyền Năng lượng vũ trụ đến Cơ thể năng lượng qua những Luân xa, Khi những Luân xa hoạt động điều hoà, thì những tuyến nội tiết hoạt động đúng với chức năng cuả nó, lượng kích thích tố không thưà, không thiếu thì các bộ phận liên hệ sẽ quân bình trở lại và cơ thể sẽ bình phục. Đây là lợi ích quan trọng nhất trong cuộc sống con người.

Đối với những vết thương ngoài da như: vết cắt, phỏng… Vì Cơ thể vật chất và cơ thể năng lượng liên quan mật thiết với nhau, nên khi bị thương thì cơ thể năng lượng tại vết thương đó bị rối loạn, khi ta đặt tay vào vết thương ngay lập tức để truyền NLVT, thì cơ thể năng lượng tại vùng đó (vầng 1) sẽ điều hoà trở lại rất nhanh, điều này khiến cơ thể vật chất bắt buộc phải phục hồi trở lại nhanh hơn thường lệ (vì cơ thể vật chất được tạo thành và phát triển theo khuôn mẫu cuả vầng thứ nhất). Và vết thương sẽ bớt đau rất nhiều vì vầng 1 (chứa cảm giác) cuả cơ thể năng lượng cũng đã điều hoà trở lại.

Khi ta giữ được Cơ-thể năng-lượng điều hòa bằng việc truyền Năng lượng vũ trụ vào thân thể ta mỗi ngày, không tốn hao, thì dĩ nhiên ta sẽ ít bệnh hơn người bình thường, và nếu nó bệnh thì thời gian phục hồi cũng sẽ nhanh hơn

Những hoa mầu, cũng cần có năng lượng mặt trời (một phần cuả năng lượng vũ trụ) để tăng năng xuất. Vậy ngành QTSTH xử dụng được Năng lượng mặt trời thì chắc chắn hoa mầu cũng sẽ phát triển tốt, đây là một điều hợp lý.

Năng lưọng vũ trụ có thể giải thích hợp lý và khoa học cho những sự việc mà khoa học ngày nay không thể giải thích được, và cho đó là chuyện thần thoại hay những chuyện được ghi chép từ lâu nên có phần nào sai lạc. Hoặc đó là phép lạ. Trong quyển Hành Trình về Phương Đông, trước mặt các nhà khoa học Anh, pháp sư Vishudha đã tạo nên những chùm nho, hoặc mùi thơm của nước hoa, và bánh mì. Pháp sư Vishudha nói:

- "Chúa đã dạy rằng trong thiên nhiên có chất liệu đầy đủ để làm đủ mọi vật và người ta có thể tìm lương thực cuả mình trong đó, chúng ta chỉ cần rút các chất liệu này ra để tạo mọi thứ cần dùng, bằng sức mạnh cuả tư tưởng...".

Và trong Kinh Thánh, Chúa Jesus đã tạo nên bánh mì cho hằng ngàn người xử dụng. Và chính chúa Jesus đã nói rằng:

-" Những gì mà ta làm được thì các ngươi cũng làm được và các ngươi sẽ còn làm được những việc lớn lao hơn nữa"

Đó là những dẫn chứng cụ thể nhất về khả năng tạo thành vật chất qua tư tưởng. Phải chăng Chúa Jesus và Pháp Sư Vishudha đã dùng tư tưởng tập trung Năng lượng vũ trụ để tạo thành vật chất?

Trong kinh thánh, chúa Jesus đã chữa người mù sáng mắt, làm người chết sống lại và chữa nhiều bệnh. So sánh cách trị bệnh của chúa Jesus và ngành Qưới Tâm Sinh Tử Học. Ta có thể quả quyết rằng Chúa Jesus đã dùng Năng lượng vũ trụ để trị bệnh.

Với tình trạng siêu thức, và sức mạnh cuả Luân xa 6, ta có thể thay đổi cơ thể vật chất cuả ta thành Cơ thể năng lượng, và khi ở thể năng lượng ta có thể di chuyển đây đó nhanh hơn vận tốc ánh sáng. Nghĩa là khi Cơ thể vật chất cuả chúng ta đang ở trên mặt đất ( không gian hai chiều) thay đổi thành dạng năng lượng, khi đó ta bắt đầu đi vào chiều tổng hợp và ta có thể di chuyển xuyên qua vật chất (xuyên qua tường chẳng hạn) khi đã đến nơi mà ta muốn đến, khi đó ta thay đổi dạng năng lượng thành dạng vật chất, khi đó ta về lại mặt đất (không gian hai chiều), tiết kiệm rất nhiều thời gian.. Như vậy phương tiện xử dụng để vào chiều tổng hợp là tình trạng siêu thức và sức mạnh của Luân xa 6.

Trước mặt phái đoàn khoa học gia Anh Quốc, Pháp Sư Hamound El Sarim, Tiến sĩ vật lý, Đại học Oxford, có nói:

-" khi vén màn vào chiều đo thứ tư, sự phát minh khoa học ngày nay chỉ là mảnh vụn, không đáng kể. Con người có thể du lịch khắp không gian và có quyền năng ngoài sự hiểu biết cuả con người hiện tại" (Baird Spalding - Hành trình về phương đông).

Trong Kinh Thánh khi mọi người mở cửa hang nơi để xác chúa Jesus đã 3 ngày, và không thấy xác chúa ở đó. Họ kết luận là "Chúa Jesus hồn xác lên trời". Như vậy, theo những ứng dụng này, rất có thể Chúa đã thay đổi thể xác thành cơ thể năng lượng và đã ra khỏi cái hang đó rồi. Và trong một đoạn kinh thánh có mô tả là: Chuá hiện hình cho mọi ngươì thấy, hiện tượng này, có thể giải thích là Chúa Jesus thay đổi dạng năng lượng cá biệt của mình thành Cơ thể vật chất.

Ta thường nghe nói là có người sống lâu vài thế kỷ, và thường là không tin vì không biết được rõ ràng và quan trọng nhất là con người chúng ta, thường chỉ sống đến khoảng 80-100 tuổi mà thôi. Đức Comte de Saint-Germain, còn giữ xác phàm, không già, không chết, sống lẫn lộn với người trần thế, để giúp người này người nọ ..( Nguyễn văn Lượng - Con đường giải thoát). Có vị đã sống ẩn cư 2000 năm tại Hy Mã Lạp Sơn ( Baird Spalding- Hành trình về phương Đông). Với sự hướng dẫn cuả Thầy Hoàng thì Khi xử đụng được năng lượng vũ trụ , và khi tuyến Tùng và tuyến Yên hợp nhất, Tuyến Yên tiết ra kích thích tố đều đặn cho toàn cơ thể, bệnh tật sẽ không còn, tuyến Tùng tiết ra kích thích tố Melatonin đều đặn, và kết quả là cơ thể sẽ được gìa chậm đi so với thời gian. Những điều này giải thích rõ ràng và khoa học cho những người sống hằng thế kỷ.

Đến ngày tận thế, thì kẻ chết sẽ sống lại, để nghe lời phán xét cuả thượng đế. Vậy thì câu hỏi đặt ra sẽ là, những người chết đã lâu, thân xác đã hoà với lòng đất, thì khi sống lại thì thể xác ở đâu mà có? đó là trường hợp cho những linh hồn chưa đầu thai, giả sử thể xác cũ có thể tái tạo bằng phép lạ, nhưng phần hồn thì có người đã đầu thai rồi, mang thể xác mới để học hỏi và tiến hóa, thì thế nào? Đây cũng là một thắc mắc mà không ai có thể giải thích hợp lý.

Khoa Sinh Tử Học có thể tạm giải thích trường hợp này như sau: Vào ngày phán xét, những người nào nào chết mà thể xác chưa hư hỏng thí dụ như mới chết, hay bị hôn mê (coma) thì sẽ sống lại, việc sống này do quyền năng của thượng đế, việc này sẽ giống như chúa Jesus đã làm người chết sống lại trong thánh kinh. Vì rằng những người chết đã lâu, yếu tố để tạo thành cơ thể vật chất đã tan rã trong năng lượng vũ trụ cá biệt, nên với chỉ năng lượng vũ trụ cá biệt thì không thể biến đổi thành cơ thể vật chất (con người) được. Như các linh hồn lang thang không thể nào biến thành người được vì yếu tố tạo thành cơ thể vật chất đã không còn.

IV. Kết Luận:

Qua hằng ngàn năm, Trường năng lượng con người là biểu hiện cuả Năng lượng vũ trụ, và năng lượng này có liên quan mật thiết với đời sống con người. Nó được mô tả như một cơ thể sáng rực bao quanh và thấm nhập vào cơ thể con người, phát ra những bức xạ đặc thù cuả riêng nó. Trường năng lượng con người (cơ thể năng lượng) là cái phần cuả năng lượng vũ trụ kết hợp với thân thể con người (cơ thể vật chất). Như vậy, theo hình học Euclide ta có thể nói rằng, Cơ thể năng lượng là một Toàn đồ (Hologram) của Cơ thể vật chất vì: Cơ thể năng lượng là một cơ thể linh động, có dạng cuả một Cơ thể vật chất và bao trùm Cơ thể vật chất đó. Và như thế thì chắc chắn cơ thể năng lượng giúp ích rất nhiều cho cơ thể vật chất (chiều cao hơn giúp chiều thấp hơn). Vì Cơ thể năng lượng được nuôi dưỡng bởi Năng lượng vũ trụ, nên ta có thể nói Cơ thể năng lượng cũng chính là Năng lượng vũ trụ cá biệt cho cá nhân đó.

Theo Thầy Hoàng thì một cách tổng quát và rõ ràng hơn, ngoài 3 chiều mà ta thấy được bằng mắt thường mà khoa học đã biết, còn nhiều chiều nữa là mà thầy Hoàng gọi là chiều Tổng hợp, chiều này mắt thường không thấy được, thuộc dạng rung động, không những chỉ bao bọc chung quanh con người mà còn bao bọc quanh địa cầu và vũ trụ. Vì tất cả được bao quanh bởi Năng lượng vũ trụ, nên với học viên QTSTH cấp cao mới có thể truyền năng lượng đến những bệnh nhân ở xa.

Đây cũng là một trong những khả năng đặc biệt cuả ngành QTSTH.

Xử dụng được chiều tổng hợp chính là xử dụng Năng lượng vũ trụ để mang lợi ích lớn lao cho sinh vật qua trường năng lượng của sinh vật đó. Đi vào chiều tổng hợp nghĩa là ta biến đổi cơ thể vật chất của chính ta thành dạng năng lượng, hợp với Cơ thể năng lượng cuả riêng ta. Lúc này ta là một dạng của Năng lượng vũ trụ cá biệt, có thể di chuyển xuyên qua mọi vật thể và di chuyển khắp mọi nơi và dạng năng lượng này có những yếu tố để biến dạng trở lại thành Cơ thể vật chất.

Thượng đế sinh ra con người để học hỏi và tiến hóa. Con người qua hằng ngàn năm chỉ quanh quẩn về sinh kế để nuôi sống bản thân, chiến đãu với bệnh tật để sống còn. Và vì con người chỉ tin tưởng vào nền khoa học thực nghiệm vốn dĩ bị giới hạn trong không gian ba chiều, tin tưởng vào quy luật : Sinh, Lão, Bệnh, Tử. Vì vậy con người thường thì phó mặc cho số phận, và bằng lòng với quy luật và giới hạn này. Đây là một khuyết điểm và là một sai lầm lớn cho nhân loại.

Là một học viên cuả QTSTH, khi 6 Luân xa được khai mở căn bản, vượt qua được sự giới hạn cuả khoa học thực nghiệm, ta xử dụng được nguồn Năng lượng vũ trụ vô biên, nguồn năng lượng kỳ diệu này sẽ kích thích tuyến Yên, tuyến Tùng đúng mức, các tuyến nội tiết sẽ tiết ra các kích thích tố đều đặn, khiến các cơ quan trong cơ thể luôn luôn hoạt động điều hòa. Và như vậy ta sẽ có cơ hội chiến thắng được bệnh tật, rồi ta sẽ có cơ hội sống lâu hơn để học hỏi, tiến hóa, giúp đời và giúp người. Thế kỷ 21 đã bắt đầu. Với hành trang chính là Năng lượng vũ trụ vô cùng qúy báu, cùng với niềm tin yêu thực sự với Thượng đế, và tình thương thật sự giữa con người và con người, thì chắc chắn tất cả những yếu kém của con người về mọi phương diện cũng sẽ qua đi. Khi đó cuộc sống của thế kỷ 21 sẽ là một cuộc sống hoàn toàn mới, của con người mới, của thế giới mới, thế kỷ an bình trong đó mọi người sẽ được thực sự ấm no và thực sự hạnh phúc.


Tuyên ngôn về hố đen vũ trụ và triết lý “Sắc bất dị không...”

Năm 2005 được nhân loại lấy làm năm Vật lý quốc tế, đồng thời kỷ niệm lớn 100 năm ngày ra đời Thuyết tương đối của nhà bác học vĩ đại Albert Einstein.

Chúng ta, những con người lương thiện hiện đang sống trên trái đất tươi đẹp này nên vui mừng vì sự kiện đó. Vì rằng trong trực giác của con người đang bùng phát không thể diễn tả thành lời dấu hiệu của lòng khao khát vươn lên sẵn sàng đón nhận những bước thay đổi lớn lao trong lịch sử nhận thức của lòai người, kể cả về khoa học tự nhiên lẫn khoa học xã hội.

Tại thời điểm này, tôi tin rằng đang có hàng trăm, hàng ngàn “bộ óc” siêu việt trong số hơn 6 tỷ con người sống trên trái đất đang mày mò suy nghĩ tìm cách bứt phá vươn lên, dám chấp nhận từ bỏ những quan điểm xưa cũ tưởng như bất di bất dịch nhưng sự thực lại là lỗi thời và đang trói chặt sự tiến hóa cao hơn của tri thức. Một bước tiến mới, một sự thay đổi lịch sử nhận thức con người theo chiều hướng tốt và cao hơn sẽ phải xảy ra. Cái sẽ phải xảy ra đó không thể nào khác được là phải liên quan tới Einstein và sự tuyên bố sai lầm trong suốt 29 năm nghiên cứu về hố đen trong vũ trụ của nhà khoa học người Anh Stephen Hawking.

Einstein thường hay trích dẫn: “Khoa học thiếu tôn giáo thì khập khiễng, tôn giáo thiếu khoa học thì mù lòa...”. Sự nghiên cứu về hố đen của ông Stephen Hawking bị khập khiễng do thiếu tôn giáo chăng? Đó là ý tưởng lớn khiến chúng ta cần mượn sự trợ giúp của triết lý “Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc...” trong kinh “Trái tim Tuệ giác Vô thượng” của Đức Phật Thích ca. Hạnh phúc thay! Sự bí ẩn của hố đen thế là từ nay không còn bí ẩn nữa.

Để hiểu trọn vẹn trong hố đen của vũ trụ có những gì, chúng ta cần kiên nhẫn biết khái quát theo quan điểm khoa học về hố đen và những yếu tố vật lý khác có liên quan.
Hố đen trong vũ trụ là gì ?

Từ những thập kỷ đầu của thế kỷ XX, các nhà khoa học thiên văn trên thế giới đã phát hiện ra trong không gian bao la của vũ trụ có những vùng đặc biệt tối đen. Các loại kính thiên văn hiện đại bậc nhất không nhận được bất cứ sự bức xạ nào gọi là của vật chất phát ra, chỉ thấy tại đó tối đen như mực. Nhưng từ khoảng cách xa, mọi vật thể như các hành tinh, các vì sao vẫn tồn tại và di chuyển theo những quỹ đạo có liên quan tới vùng tối đen, và ánh sáng, sự dao động điện từ hay còn gọi là các “hạt” phôtôn khi chuyển động có khối lượng tới đó cũng bị hút vào. Điều đó đã buộc các nhà khoa học phải suy đoán tại vùng tối đen ấy không phải là vùng trống rỗng mà là vùng có trường lực hấp dẫn cực lớn. Cái vùng tối đen như mực nhưng có sức hút khủng khiếp, hút mọi thứ vào trong đó được khoa học đặt tên là Hố đen.

Tuy nhiên, từ trước đấy các nhà khoa học cỡ lớn, cụ thể như Einstein đã hình dung ra hiện tượng suy sụp hấp dẫn tồn tại trong không gian vũ trụ của những Siêu sao có khối lượng cực lớn. Ví dụ có một Siêu sao với khối lượng cực lớn, tương ứng với khối lượng đó là một trường hấp dẫn cực mạnh bao quanh và trong quá trình toả sáng nó sẽ bị mất năng lượng. Sự mất năng lượng lớn đến một lúc nào đó sẽ tạo ra đối áp suất khiến cho cấu trúc vật chất của Siêu sao đổ sụp vào trong. Tức là Siêu sao đã “chết”, kích thước của nó co lại một cách cực kỳ nhanh chóng và cuối cùng trở thành một hố đen, một vùng gồm toàn trường lực hấp dẫn mạnh. Toàn bộ những gì có khối lượng nếu nằm trong phạm vi trường lực hấp dẫn của hố đen đều bị hút vào trong và mất tích trong đó. Quá trình bị hút vào trong và bị mất tích như thế nào thì chưa ai hình dung ra được.

Sự suy sụp hấp dẫn của Siêu sao để biến nó thành một hố đen gợi lên một ý: khối lượng có thể biến thành năng lượng. Tôi ngờ rằng tư duy về việc này Einstein đã nảy ra công thức bất hủ E=m.c²¬¬ , và đây cũng là một vế “Sắc bất dị không...” trong kinh Phật để nói lên cái vô thường của vạn vật trong vũ trụ. Một ngôi sao to lớn hùng vĩ là thế rồi cuối cùng cũng phải “chết” và đổ sụp vào trong, biến thành một khoảng hư vô không trông thấy, chẳng có hình dáng kích thước gì cả. Dấu vết của nó chỉ để lại một vùng gồm toàn lực vô hình, và những cái gì là khối lượng có hình thể chỉ thấy có vào chứ không có ra. Dường như hiện tượng hố đen cố tình chọc tức định luật bảo toàn năng lượng - khối lượng của vật chất.

Khái quát về hố đen như trên chưa thể dễ hiểu để xem xét bên trong nó có gì, chúng ta cần phải biết thêm khái quát các chiều của không gian.

Các chiều của không gian

Bất cứ ai đi học tại các trường phổ thông đều được tiếp xúc với hình học phẳng Euclide. Hình học phẳng Euclide mô tả rất tốt trên mặt phẳng trong hệ không gian 3 chiều. Không gian 3 chiều được biểu diễn bằng 3 phương x, y, z vuông góc với nhau. Hai phương vuông góc tạo thành mặt phẳng, phương còn lại vuông góc với mặt phẳng đó. Tiên đề của hình học phẳng là 2 đường thẳng song song không bao giờ cắt nhau, hình chiếu của một điểm lên một mặt phẳng chỉ là một điểm. Nghĩa là chỉ tồn tại một hình và một bóng của hình đó. Trong quá trình tiến hóa của tri thức, người ta thấy rằng hình học Euclide mặc dù độc quyền thống trị thế giới lâu đến thế song vẫn hoàn toàn không phải là hình học duy nhất. Có thể xây dựng một hình học khác không kém phần lôgíc và nó không mâu thuẫn nội tại hơn so với hình học Euclide. Thế là hình học Hipecbon hay còn gọi là hình học phi Euclide ra đời. Hình học phi Euclide nhằm mô tả không gian, mặt phẳng thay bằng mặt cong, ít nhất là thêm một chiều nữa vào để trở thành không gian 4 chiều. Bạn hãy hình dung đơn giản là tại không gian 3 chiều có một phương vuông góc với một mặt phẳng thì nay phương đó vuông góc với mặt cong. Tiên đề 2 đường thẳng song song không bao giờ cắt nhau thì nay 2 đường thẳng song song đó cắt nhau. Ví dụ 2 đường kinh tuyến song song với nhau trên mặt hình cầu cắt nhau tại 2 điểm cực Bắc và Nam. Hình chiếu của một điểm lên mặt phẳng chỉ là một điểm nhưng lên mặt cong sẽ không phải chỉ một điểm nữa mà là một hình khác tập hợp bởi nhiều điểm. Tức là không phải chỉ một hình một bóng như hình học phẳng Euclide, một hình có thể có nhiều bóng tuỳ theo độ cong của mặt cong. Không gian càng có nhiều chiều thì độ cong càng lớn, số bóng của hình càng nhiều. Sức tưởng tượng của đa số chúng ta có giới hạn, nên thư giãn một tý cho vui bằng câu chuyện ông Tôn ngộ không trong truyện Tây du ký có thể biến hóa thành hàng trăm ông Tôn ngộ không giống nhau như đúc trong khắp không gian mà không biết ông nào là thật ông nào là giả. Chúng ta đang quen với cái chỉ có một hình một bóng, nay nếu thấy chỉ một hình mà có tới 5, 10, thậm chí hàng trăm, hàng ngàn cái bóng thì khó có thể tin và chấp nhận được cái vô lý khủng khiếp ấy dù nó là sự thật khoa học tại không gian nhiều chiều, không gian cong.

Mô tả khái quát như vậy để thấy không thể xác định được vị trí thật của một hình thể cụ thể trong cái không gian nhiều chiều hơn số chiều của không gian chúng ta đang nhận thức. Một hình thể cụ thể nào đó nằm trong không gian nhiều chiều bản thân nó vẫn tồn tại và cả cái không gian nhiều chiều chứa nó đại diện cho nó. Nghĩa là bất cứ vị trí nào trong không gian nhiều chiều cũng có cái bóng của hình thể nói trên mà không thể xác định vị trí thật của nó. Điều đó để ngầm hiểu rằng khối lượng m chuyển thành năng lượng E trong công thức E=m.c² hình thể của khối lượng m vẫn tồn tại ở một vị trí nào đó trong năng lượng E, và tại vị trí bất kỳ nào đó trong năng lượng E cũng đều có thể thấy cái bóng của hình thể khối lượng m . Điều này tương tự như trong kinh Phật, Phật nói: Phật ở khắp mọi nơi, bất cứ chỗ nào cũng có thể gặp Phật, pháp thân của ông bao trùm khắp không gian, thực tế cái bóng của ông vẫn tồn tại nhưng vị trí thật thì không biết ở đâu.

Không gian nhiều chiều khái quát như vậy nhưng có lẽ vẫn cần khái quát thêm một đại lượng vật lý rất quen thuộc nữa đó là: Bản chất ánh sáng.

Khái quát bản chất ánh sáng

Cách đây vài chục năm, có một tạp chí đã nêu những bí ẩn của thiên nhiên mà khoa học chưa thể giải thích được. Một trong những bí ẩn ấy là: Theo tính toán của một số nhà khoa học thì tổng của tất cả các phản ứng nhiệt hạch xảy ra trên mặt trời sản sinh ra số hạt phôtôn (ánh sáng) không đủ với số lượng mà thực tế mặt trời đã phát ra trong không gian. Vậy thì mặt trời lấy đâu ra số phôtôn để phung phí như vậy?

Nếu tạp chí đó không phải là báo lá cải và thông tin khoa học về sự tính toán đó là chính xác thì chúng ta có thể hình dung rõ nét hơn về diện mạo không gian cũng như bản chất ánh sáng. Bản chất của ánh sáng là gì? Có thể nói toạc ra rằng cho đến nay khoa học vẫn chưa hiểu được rõ ràng. Chỉ có thể định nghĩa khái quát: ánh sáng vừa mang tính sóng vừa mang tính hạt. Mang tính sóng vì sự truyền của ánh sáng trong không gian có tính sóng, có sự giao thoa khi gặp nhau; mang tính hạt gọi là hạt phôtôn, vì khi chuyển động ánh sáng có khối lượng. Diện mạo của hạt phôtôn như thế nào? Đó là câu hỏi khó nên chúng ta đành phải chấp nhận với những quan niệm thuật ngữ mà vật lý hiện đại đang dùng: ánh sáng là dao động điện từ. Mô hình sự truyền của ánh sáng trong không gian được mô tả khái quát thế này: Giả sử electron gặp phản electron sẽ huỷ nhau sinh ra năng lượng, sinh ra phôtôn tức ánh sáng. Khởi đầu là sinh ra mạch điện trường khép kín, mạch điện trường khép kín xuất hiện tức điện trường biến thiên sẽ sinh ra mạch từ trường khép kín tương ứng. Mạch từ trường khép kín xuất hiện tức biến thiên từ trường lại sinh ra mạch điện trường khép kín tương ứng... Cứ thế, cái này xuất hiện làm tiền đề cho cái kia xuất hiện nối tiếp nhau như một chuỗi móc xích dịch chuyển trong không gian với tốc độ gần bằng 300.000 km/s. Nếu trong quãng đường truyền theo kiểu dây xích đó không gặp trở ngại làm mất năng lượng thì nó sẽ truyền mãi mãi trong không gian.

Mỗi một mắt xích mạch điện trường khép kín hay mạch từ trường khép kín là một “hạt” phôtôn ánh sáng, khối lượng nghỉ của phôtôn bằng không, nghĩa là mạch điện trường hay từ trường khép kín không xuất hiện. Mô hình sự truyền của ánh sáng trong không gian như vậy thì rõ ràng là tại mỗi điểm bất kỳ trong không gian đều ẩn chứa thế năng sản sinh ra “hạt” phôtôn. Triết lý “sắc bất dị không...” của Phật học lại thắng thế và là một sự tổng quát khoa học uyên bác. Tại cái không gian tưởng là trống rỗng không có gì nhưng lại ẩn chứa cái thế năng sản sinh ra “hạt” phôtôn ánh sáng có khối lượng và cái đang có khối lượng, ánh sáng trông thấy đó khi “nghỉ” lại bằng không. Phải nói là Phật Thích ca trông thấy những cái mà người thường không trông thấy, soi xét thế giới vi mô rất tinh tế, không thể cứ gán ghép lung tung là tôn giáo hay không có cơ sở khoa học. Khoa học không biết đến Phật học thì khập khiễng thật! Còn cái sự vô lý và bí ẩn của thế giới tự nhiên khi mà khoa học chưa thể giải thích được vì sao số lượng phôtôn do quá trình phản ứng nhiệt hạch sinh ra không đủ với số lượng mặt trời đã phung phí phát vào không gian đăng trong tạp chí vừa nói khiến chúng ta, những nhà khoa học cự phách, phải tự xét lại “trí tuệ uyên bác” của mình.

Không những thế, khi đã hiểu về cái tính “sắc bất dị không...” hay mỗi một vị trí bất kỳ trong không gian đều có thế năng để tạo ra mạch “điện trường khép kín”, tức tạo ra phôtôn ánh sáng mà vẫn nhận thức vận tốc ánh sáng là hằng số bất di bất dịch trong toàn vũ trụ thì nhận thức đó là sai lầm đáng tiếc. Đơn giản ở chỗ, thế năng ở một điểm bất kỳ sinh ra phôtôn ánh sáng của hệ không gian 3 chiều khác với hệ không gian 4 chiều. Ngay cái quan điểm không gian là trường điện từ đã phản ánh rất rõ ràng tốc độ dao động điện từ phụ thuộc vào trường điện từ, mà trường điện từ trên trái đất không thể giống trường điện từ trong hố đen vũ trụ. Điều khẳng định 3 đại lượng vật lý (không gian, thời gian, vận tốc ánh sáng) có liên quan chặt chẽ với nhau là sự thật chứ không phải cứ băn khoăn, nghi ngờ.

Nói qua về bản chất ánh sáng như vậy là tương đối rõ nhưng trước khi “nhìn” vào trong lỗ đen phải phác qua “dụng cụ để nhìn” là Thuyết tương đối của Einstein.

Khái quát Thuyết tương đối của Einstein

Cuối thế kỷ 19, giới khoa học xôn xao về vấn đề Ete vũ trụ, họ cho rằng tồn tại một chất Ete nào đó trong không gian, chất này có thể sẽ cản vận tốc truyền của ánh sáng khi nó cùng chiều chuyển động với trái đất. Để phát hiện ra chất Ete và cũng là để chứng minh nguyên lý tương đối về vấn đề cộng vận tốc, nhà khoa học Michelson đã chế tạo ra dụng cụ đo và thực tế đo đi đo lại vận tốc ánh sáng theo mọi phương so với phương chuyển động của trái đất. Thật kỳ lạ là vận tốc truyền của ánh sáng theo mọi phương là như nhau, nghĩa là nó có tính độc lập, không phụ thuộc vào nguồn chuyển động.

Kết quả thực nghiệm đo vận tốc ánh sáng đó không những đã phủ định sự tồn tại của chất Ete mà còn gây ra mâu thuẫn lớn với nguyên lý tương đối khiến cho giới khoa học ngỡ ngàng không hiểu cái nào là đúng cái nào là sai. May thay! Năm 1905, với bộ óc uyên bác hiểu được vấn đề, Einstein đăng một bài báo, trong đó ông nói một cách đơn giản là hai tiên đề nguyên lý tương đối và tính độc lập của vận tốc ánh sáng, không những không đối lập với nhau mà còn cho phép giải thích được nhiều điều nếu đồng thời chấp nhận chúng. Và đó là cơ sở ra đời

Thuyết tương đối

Thuyết tương đối của Einstein tương đối trừu tượng và khó hiểu đối với những người không chuyên về vật lý. Nội dung chính của Thuyết tương đối phản ánh hiện tượng khi một hệ quy chiếu chuyển động với vận tốc nhanh cỡ gần với vận tốc ánh sáng thì tại hệ đó xảy ra hiệu ứng biến đổi không gian, thời gian, kích thước, khối lượng. Tốc độ chuyển động càng nhanh thì hiệu ứng biến đổi càng lớn. Einstein đã đưa ra nhiều công thức tính toán nhưng điển hình nhất là công thức E=m.c² (trong đó E: năng lượng, m: khối lượng, c: vận tốc ánh sáng). Công thức này phản ánh giữa năng lượng và khối lượng có thể chuyển hóa lẫn nhau.

Để mô tả những nét chính của Thuyết tương đối thật dễ hiểu, chúng ta hãy theo dõi ví dụ sau đây:
Giả sử có một con tàu chứa một số hành khách đi du lịch xuất phát từ một sân bay trên trái đất (coi trái đất là hệ đứng yên), bay vào khoảng không vũ trụ với vận tốc cực nhanh cỡ khoảng 0,7 vận tốc ánh sáng. Với vận tốc này, tại con tàu bắt đầu xảy ra hiệu ứng tăng khối lượng, khi khối lượng tăng thì trường hấp dẫn cũng tăng theo tương ứng. Trường hấp dẫn tăng của con tàu là nguyên nhân làm co không gian, co kích thước và thời gian trôi chậm lại phù hợp với độ co của không gian. Chúng ta là những người quan sát đứng trên trái đất (hệ đứng yên) sẽ nhận thấy: Con tàu khi chưa chuyển động có khối lượng là m, kích thước đường kính: d , thời gian trôi như chúng ta là: t

Khi bắt đầu xảy ra hiệu ứng thì những thông số đó đã khác, khối lượng là m’ > m , kích thước đường kính d’ <> t . Nếu con tàu tiếp tục tăng vận tốc để tiến tới xấp xỉ vận tốc ánh sáng thì khối lượng của nó sẽ tiến tới lớn vô cùng, thời gian trôi chậm vô hạn và kích thước đường kính của con tàu sẽ tiến tới bằng không. Hiệu ứng biến đổi tăng khối lượng, co không gian, co kích thước, trôi chậm thời gian đã đạt đến đỉnh điểm của sự chuyển trạng thái từ khối lượng thành năng lượng theo công thức E=m.c². Chúng ta có thể hình dung một sự vô lý nhưng có thật là: con tàu có hình thể kích thước đàng hoàng chuyển động nhanh bằng vận tốc ánh sáng lại trở thành không có hình thể, kích thước bằng số không. Mắt chúng ta không thấy hình thể con tàu nữa, giờ đây nó là vô hình, nhưng trong trí não vẫn hình dung ra có một khối năng lượng, một khoảng trường lực hấp dẫn vô hình tương đương với khối lượng tăng vô cùng lớn của con tàu đang chuyển động với vận tốc ánh sáng trong không gian. Hình dáng độ lớn của “khối năng lượng” đó thế nào thì quả thật ngoài trí tượng tượng của con người.

Theo nguyên lý tương đối, con tàu đó vẫn tồn tại, khách du lịch trên tàu vẫn sống thoải mái như chẳng có chuyện gì xảy ra. Đối với họ thì chẳng có cái kích thước, không gian nào bị co hay thời gian bị trôi chậm cả, sự biến đổi không gian, thời gian nếu có thì có lẽ chỉ xảy ra trên trái đất. Theo lịch trình đã quy uớc, sau một năm khách du lịch quay trở về trái đất, tất nhiên là họ tính theo thời gian trôi tại con tàu, thì thời gian trôi tại trái đất đã qua vài thế kỷ.

Như vậy là chúng ta đã sơ bộ phác qua những yếu tố cơ bản cần thiết dựa vào nó để xé toang bức màn bí mật bấy lâu nay đã che phủ lỗ đen trong vũ trụ, cũng là lúc giải mã được cái câu triết lý sâu sắc “sắc bất dị không, không bất dị sắc...” tồn tại hơn 2500 năm đến nay trong Phật giáo mà nhân loại chúng ta chẳng mấy ai hiểu ý nghĩa thực nên đã khập khiễng và mù lòa như lời của Einstein đã nói. Cần phải sớm chấm dứt tình trạng khập khiễng và mù lòa càng nhanh càng tốt, do đó bản Tuyên ngôn về lỗ đen vũ trụ hay còn gọi là Tuyên ngôn văn hóa Phật học “sắc bất dị không...” ra đời.

Tuyên ngôn về hố đen vũ trụ và “sắc bất dị không...”

Như đã giới thiệu khái quát, hố đen là một thực thể vô hình trong vũ trụ, giới khoa học gọi là một khoảng không gian cong với độ cong rất lớn, có nhà khoa học gọi đó là hệ không gian - thời gian 10 chiều nếu quy ước hệ không gian - thời gian của chúng ta là 4 chiều (3 chiều không gian và một chiều thời gian). Trong hệ không gian - thời gian 10 chiều đó có những cái gì không ai biết, chỉ biết rằng không thể tồn tại bất cứ cái gì gọi là vật chất, bởi trường lực hấp dẫn mạnh khủng khiếp, hút tất cả những hình thể có khối lượng, kể cả ánh sáng lởn vởn xung quanh vào trong. Những hình thể có khối lượng bị hút vào trong rồi đi đâu? Đó là vấn đề trớ trêu của tạo hóa chỉ ra rằng: Định luật bảo toàn năng lượng - khối lượng với những nhận thức bất di bất dịch của chủ nghĩa duy vật không còn ngôi vị thống soái. Tri thức của con người sẽ không thể tiến hóa nếu vẫn còn tính cố chấp, bảo thủ tự coi mình là vĩ đại trong thế giới tự nhiên.

Điều lôgíc ai cũng có thể nhận thấy cái hố đen có không gian - thời gian 10 chiều đó không thể đồng nhất từ trong ra ngoài. Thế năng trọng trường P=m.g.h của trường hấp dẫn đã chỉ ra chiều của không gian phải tăng từ ngoài vào trong. Nghĩa là tại vị trí bán kính ngoài cùng không gian - thời gian 10 chiều của lỗ đen có số chiều xấp xỉ như không gian - thời gian 4 chiều của chúng ta.

Con tàu chở khách đi du lịch của Einstein như đã ví dụ. khi chuyển động cực nhanh đến một cái ngưỡng nào đó mới bắt đầu xảy ra hiệu ứng biến đổi tăng khối lượng, co không gian... Từ cái ngưỡng xảy ra hiệu ứng, tốc độ con tàu càng cao thì hiệu ứng biến đổi càng mạnh, không gian - thời gian của con tàu càng cong, số chiều càng tăng lên. Kết quả cuối cùng của hiện tượng là không gian - thời gian có số chiều, có độ cong do nguyên nhân trực tiếp là hiệu ứng biến đổi, nguyên nhân gián tiếp là sự chuyển động nhanh. Nếu như quay ngược lại hình ảnh cuộn phim biến đổi không gian - thời gian của con tàu đó chúng ta sẽ thấy chính số chiều, độ cong của không gian - thời gian trên con tàu lại là nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp của kết quả hiệu ứng biến đổi tăng khối lượng... cũng như sự chuyển động nhanh của con tàu. Do vậy, giả sử con tàu của Einstein đi với tốc độ hết sức bình thường, chẳng có hiệu ứng nào xảy ra với tốc độ đấy, nhưng lọt vào lỗ đen thì chính số chiều và độ cong không gian - thời gian của lỗ đen sẽ gây ra hiệu ứng biến đổi tăng khối lượng, giảm kích thước, trôi chậm thời gian và giảm tốc độ của con tàu. Con tàu càng vào sâu trong hố đen thì hiệu ứng biến đổi càng lớn, tốc độ con tàu càng giảm theo quan sát của chúng ta đứng bên ngoài. Hiệu ứng biến đổi của con tàu sẽ dừng lại khi độ cong hay số chiều không gian - thời gian của con tàu cân bằng với độ cong, số chiều không gian - thời gian của hố đen. Kích thước con tàu chúng ta thấy ở bên ngoài là dương, có hình thể rõ ràng, nhưng khi vào trong không gian - thời gian của hố đen hình thể, số dương đó giảm dần, thu nhỏ lại về số không chứ chưa dám kết luận là trở thành số âm.

Căn cứ vào nguyên lý tương đối, con tàu của Einstein vẫn tồn tại khi nó chuyển động cực nhanh gây ra hiệu ứng biến đổi không gian - thời gian của chính nó thì tại không gian - thời gian của hố đen nó cũng tồn tại như vậy. Các khách du lịch trên con tàu vẫn sống bình thường như không có chuyện gì xảy ra. Đối với họ, thế giới xung quanh vẫn là thế giới vật chất không có gì khác lạ. Nhưng đối với chúng ta, con tàu và những vị khách du lịch đó đang ở trong hố đen, một thế giới siêu hình hoàn toàn khác biệt, tất cả đều trong trạng thái vô hình, gọi là “khối lượng” không có kích thước, hình thể cũng được mà gọi là “năng lượng siêu hình” cũng không sai. Quả là “sắc bất dị không, không bất dị sắc...” Cái mà chúng ta tưởng là thật hóa ra không phải thật, cái mà tưởng là đã “chết” hóa ra không “chết”. Cái “Tưởng là...” của chúng ta rõ ràng không phải là chân lý khoa học trong thế giới tự nhiên. Về mặt lý thuyết, con tàu chuyển động của Einstein đi chu du khắp vũ trụ với tốc độ cực lớn gây hiệu ứng biến đổi không gian... của chính nó, có thể trở về trái đất yên bình trong tương lai. Nhưng con tàu đó lọt vào hố đen, do chính không gian - thời gian của hố đen gây hiệu ứng biến đổi thì quả thực là đến giờ phút này không ai có thể nghĩ ra cách thoát khỏi trường lực hấp đẫn mạnh khủng khiếp ấy để trở về trái đất an toàn.

Bí mật của hố đen đã được khám phá. Nhân danh tri thức của con người, chúng ta có quyền tuyên bố rằng:
- Các bộ môn khoa học cơ bản, nhất là ngành vật lý thiên văn vũ trụ của nhân loại đang khập khiễng, đang dựa trên nền tảng của sự nhận thức chưa chuẩn.
- Tại các hố đen đầy rẫy trong vũ trụ là các thế giới siêu hình theo quan điểm nhận thức của chúng ta nhưng lại là hữu hình theo quan điểm nhận thức của “những người” tại thế giới siêu hình đó.
- Trí tuệ của loài người còn đang tiến hóa, chưa đạt đến đỉnh cao nên đừng tùy tiện nghĩ đến chuyện “cải tạo” thế giới tự nhiên phục vụ ý muốn chủ quan của mình mà có thể sẽ vô tình phá vỡ sự cân bằng của nó.
- Có những lý trí, nền văn minh cao đang tồn tại trong không gian vũ trụ ngoài sức tưởng tượng của con người, chỉ khi nào trình độ phát triển trí tuệ chung của nhân loại tương đối cao mới nhận biết được điều đó.
- “Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc...” đó là tư tưởng của Đức Phật Thích ca mang tính khoa học để giải mã những điều tuyên bố trên chứ không phải theo nhận thức để áp dụng phương pháp tu luyện tính Không đang hiện hành trong tôn giáo Phật.

Có những điều tưởng là vô lý không tin được, nhưng lại là sự thực khách quan. Đầu thế kỷ XX , khoa học của nhân loại cũng đã va vấp vào sự vô lý không thể tin được như sự mâu thuẫn giữa tính độc lập của vận tốc ánh sáng và nguyên lý tương đối; nhưng cũng đã vượt qua vì đức khiêm tốn tự xét trình độ có giới hạn của mình dám chấp nhận sự vô lý trớ trêu để thu được kết quả tốt đẹp: mở rộng nhận thức để tiến hóa cao hơn. Đầu thế kỷ XXI này, lịch sử lại lập lại, sự vô lý không thể tin được lại ập đến thử thách tri thức loài người một lần nữa. Tin và chấp nhận hay không tuỳ các bạn, đối với tôi sự vô lý và không tin được đó là sự phản ánh trình độ phát triển trí tuệ của chúng ta chưa cao, nhưng lại toát lên trình độ uyên bác, vĩ đại của một vĩ nhân mà nhân loại chưa hiểu, vẫn tưởng là tôn giáo, và vẫn thờ phụng theo kiểu tôn giáo rất ngây thơ, có thể nói là sự lầm lạc đáng thương. “Sắc bất dị không...” lại hiểu theo cái lối dùng ý chí bế bịt tất cả các giác quan cảm xúc của con người, cố tập theo cái tính Không tự nghĩ: Không yêu - ghét, không vui - buồn, không nghe, không nhìn, không học, không làm... Để mong được ngộ đạo và có trí tuệ Phật, để “trốn việc quan đi ở chùa”. Hoặc thù hận đến điên cuồng cuộc sống văn minh đầy đủ tiện nghi vật chất, hay ngược lại lại lấy sự đầy đủ tiện nghi vật chất làm thú vui hạnh phúc của con người. Hơn 2500 năm qua, thực tế có thấy người nào tu luyện theo cái kiểu cách ấy mà đạt công quả có trí tuệ siêu phàm, bố thí hỷ xả giúp ích cho đời như ông Newton hay ông Einstein chỉ biết thuần túy về khoa học đâu? Danh hiệu Phật, đại Bồ tát trong Phật giáo chỉ dành cho những người có lòng từ bi hỷ xả bố thí trí tuệ, sức lực (hoặc vật chất nếu có) lớn cho xã hội loài người mà không cầu mong được đáp ứng lại. Không có trí tuệ, sức lực... để bố thí cho xã hội ấm no, hạnh phúc mà chỉ phá rối, thù oán ngu xuẩn thì làm sao có danh hiệu đại Bồ tát để khi chết được lên cõi “thiên đàng”?

Có những người muốn biết về cõi thiên đàng, cõi Niết bàn hay cõi Tây phương cực lạc ở đâu để họ có hướng tu dưỡng. Không ai trả lời được câu hỏi đó nên thường lảng tránh hoặc giảng giải với ý nghĩa mơ hồ. Vì vậy mới có những kẻ lợi dụng xúi giục những tín đồ mê muội ôm bom liều chết phá hoại cuộc sống của người khác cũng như của chính bản thân mình để hòng linh hồn được “đón” lên cõi “thiên đàng”, hay cõi “niết bàn”... Đau đớn thay! Chỉ khi nào trí tuệ con người đạt đến đỉnh cao vời vợi, tức là đã thật sự “...tiến sâu vào nguồn mạch của Tuệ giác vô thượng,..”, lúc đó mới tự “soi sáng như thật rằng...” : Loài người đang tu mù! Các trò nhố nhăng đang diễn ra trên thế giới này đều là giả dối, vô vị. Chỉ vì thiếu tri thức, không hiểu giá trị của cuộc sống làm người và vì sự duy trì tồn tại của cái thân xác vật chất mà anh này lừa bịp anh kia, đang tâm huỷ hoại lẫn nhau, thậm chí còn sui nhau tự phá hỏng cuộc đời “làm người” đáng quý của mình mà tạo hóa đã ban tặng.

Một con người đã làm nên lịch sử như Đức Phật Thích ca, có trí tuệ siêu phàm hiểu được các tinh hoa của khoa học từ thế giới vi mô đến thế giới vĩ mô trước chúng ta, những bác học hiện đại ngày nay hơn 2500 năm. Ông là Thánh nhân chưa dám nói là vĩ đại nhất, nhưng ra đời sớm nhất trong số các Thánh nhân của loài người, chúng ta thấy ông đâu có sui ai đi lật đổ, đảo chính phá rối trật tự xã hội hoặc sui ai ôm bom liều chết tử vì Đạo... mà chỉ sui làm việc thiện, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Vì trong tri thức “soi sáng như thật rằng...” cõi “Thiên đàng”, cõi “Tây phương cực lạc”... hay gọi theo khoa học là khoảng không gian - thời gian 10 chiều của hố đen đang tồn tại trong vũ trụ không có chỗ chứa cho những kẻ ngu dốt và tàn ác sát sinh, dù là người bị súi giục.

Hỡi những con người chưa được “tỉnh thức bình yên”, hãy tự soi xét lại mình, sám hối và sớm giác ngộ buông tay dao, tay lựu đạn để dắt tay nhau cùng học hỏi, tìm hiểu về chân lý giá trị đích thực của cuộc sống Làm Người trước khi hành động.

Lê văn Cường